Ứng dụng của CBCT trong lâm sàng nha khoa – Part 5

Trong phần cuối của chuỗi bài ứng dụng CBCT trong lâm sàng nha khoa, chúng ta cùng theo dõi phần cuối về ứng dụng CBCT đối với phân tích TMJ trong nha khoa như thế nào. Và phần đúc rút sau cùng dành cho Nha sĩ trong việc lựa chọn: FOV, chỉ định chụp dành cho CBCT trong thực hành hằng ngày.

Khảo sát TMJs – Khớp thái dương hàm

Một khảo sát CBCT sẽ không thể hiện vị trí hay tính toàn vẹn của đĩa sụn vì đĩa sụn không phải là cấu trúc vôi hoá. Một phim CBCT trực quan TMJs có thể sử dụng để đánh giá cho những thay đổi của phần xương đến lồi cầu xương hàm dưới hay hố chảo của xương thái dương. Những thay đổi của phần xương này có thể là kết quả của chấn thương/gãy xương, thay đổi thoái hoá hay các khối u ác tính. Nếu việc xác minh các thành phần của mô mềm của khớp là yêu cầu của bác sĩ lâm sàng, một loại hình ảnh khác cần thực hiện như chụp cộng hưởng từ (MR) được khuyến nghị. Hệ thống cơ của khớp thái dương hàm không thể được đánh giá bằng CBCT; việc sử dụng của phim CBCT cho việc chẩn đoán và điều trị rối loạn đau cơ hoặc điều trị lệch đĩa đệm không  thuộc chỉ định và vì thế không hữu ích cho các nhà lâm sàng.

Việc cần thiết để đánh giá về khớp thái dương hàm là lựa chọn chiều cao để chụp và phần mềm cần có công cụ để cho phép phân tích.

Nếu đáng giá về xương của khớp thái dương hàm (TMJs) được yêu cầu, điều quan trọng là lựa chọn chiều cao chụp để hình ảnh lấy được toàn bộ không gian của khớp. Một nhược điểm của thiết bị khi sử dụng bộ tăng cường hình ảnh như một phần phát là không gian của khớp TMJ thường không hoàn chỉnh hoặc không được trực quan tại điểm rìa của vùng cầu và có thiên hướng bị biến dạng.

Kết luận

Mặc dù CBCT là một công cụ tuyệt với cung cấp hình ảnh 3D, nhưng nó không thể thay thế được những hình ảnh tiêu chuẩn và nên được tối ưu sử dụng như một công cụ bổ sung cho các trường hợp cụ thể chứ không phải cho mọi trường hợp thông thường. Nghiên cứu phim CBCT với trường khảo sát nhỏ và độ phân giải nhỏ sẽ củng cố được độ phân giải không gian, đặc biệt với mục đich điều trị nội nha. Những ưu điểm của CBCT so với phim Pano là phân tích 3D, không bị chồng hình hay biến dạng, và khả năng tạo ra những hình ảnh với lát cắt ngang. Nhược điểm của CBCT so với hình ảnh Panoramic là liều tia bị tăng hơn, có thể bị nhiễu tạp và chi phí.

Những ưu điểm của CBCT so với CT y tế (MDCT) là thời gian chụp nhanh hơn với ít bị ảnh hưởng của nhiễu tạp, chi phí ít hơn và liều tia bức xạ ít hơn cho bệnh nhân. Một nhược điểm chính của CBCT là ít tương phản của mô mềm, điều này làm hạn chế đến việc đánh giá mô mềm. Có một vài bước mà các nhà lâm sàng cần thực hiện kiểm tra và phân tích cho từng bệnh nhân trong những trường hợp cụ thể:

Vùng cần chụp và FOV

Những răng nào hay những cấu trúc giải phẫu nào cần được trực quan? Liệu vùng TMJ có cần phải bao gồm trong khi quét không? Việc trực quan cả hai hàm có cần thiết hay chỉ cần một hàm? Việc trực quan một nửa xoang hàm trên có đủ hay không?

Máng hướng dẫn phẫu thuật:

Liệu điểm đánh dấu thể hiện chính xác vị trí của vùng chỉ định Implant mong muốn? Làm máng hướng dẫn phẫu thuật có cần thiết? Máng hướng dẫn có khít sát? Trong những trường hợp việc chụp phim được thực hiện ở một nơi khác và máng hướng dẫn sẽ sử dụng, Bác sĩ cần phải kiểm tra độ khít sát và đánh giá máng trước khi buổi điều trị thực hiện. Và Bác sĩ cũng cần phải giải thích cho bệnh nhân việc đặt chính xác vị trí của máng để tránh bị sai.

Kích thước voxel:

Với kích thước voxel nào là tốt nhất cho từng trường hợp cụ thể?

Khác: Có cần thiết phải tối đa khớp cắn trung tâm các răng của bệnh nhân trong khi chụp? Hay tách răng nào? Có nên đặt gòn cuộn đặt vào răng để tách hàm hoặc có nên sử dụng ghi dấu cắn trong khi chụp?

Nếu bác sĩ Xquang miệng hay phẫu thuật hàm mặt ghi lại báo cáo trong quá trình quét, điều quan trọng là cần cung cấp đủ dữ liệu lâm sàng (tuổi, giới tính, những tiền sử bệnh quan trọng, thời gian đau hoặc sưng) để hỗ trợ trong việc chẩn đoán và lựa chọn điều trị.

Đây là trách nhiệm của các nha sĩ để đánh giá sự cần thiết của nhu cầu sử dụng nghiên cứu CBCT cho từng trường hợp cụ thể, và cung cấp một bản tường thuật cho toàn bộ dữ liệu về thể tích có được. Điều này áp dụng cho dù bác sĩ lâm sàng có yêu cầu hoặc thực hiện chụp CBCT, và việc sử dụng này là trong phòng khám nha khoa đó hay cho một khách hàng được giới thiệu.

Cảm ơn các Quý bác sĩ và bạn đọc đã theo dõi chuỗi bài: Ứng dụng CBCT trong lâm sàng nha khoa và Blog của Planmeca. Hy vọng Quý bác sĩ sẽ có được những thông tin bổ ích và ít nhiều có thể ứng dụng khi sử dụng CBCT cho các trường hợp ứng dụng trên.

Nguồn bài viết được dịch từ: dentalcare.com/en-us/professional-education/ce-courses/ce531/implant-dentistry

Related Posts

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *