Là một bác sĩ nha khoa tổng quát, đôi khi giải phẫu răng có thể khiến bạn phải lo lắng. Chúng tôi đã khám cho hàng ngàn bệnh nhân mỗi năm. Đôi khi giải phẫu của họ bình thường, đúng như chuẩn thông thường, nhưng đôi khi lại không. Một bác sĩ lâm sàng có kinh nghiệm có thể chỉ ra những khác biệt này nhanh chóng. Tuy nhiên, công nghệ tiên tiến ngày nay cũng có thể loại bỏ “yếu tố trải nghiệm” khỏi tầm tay của bạn. Khi điều trị cho những bệnh nhân có dị tật về giải phẫu, các bác sĩ tổng quát có thể sử dụng công nghệ này để phục vụ những bệnh nhân này tốt hơn.
Nội dung bài viết bao gồm:
- Lợi ích của CBCT cho bác sĩ tổng quát
- Sử dụng CBCT trong điều trị nội nha
- Case lâm sàng
Lợi ích của CBCT
Tôi đã có một máy ProMax Pro Touch 3D Classic CBCT (Planmeca) từ tháng 12 năm 2015. Tôi không chỉ sử dụng để chụp 3D cho lập kế hoạch cấy ghép implant của mình mà còn sử dụng nó cho bất kỳ ca nội nha nào mà tôi định làm, ngay cả những ca đơn giản hơn.
Hình ảnh 3D cho các ca nội nha giúp tôi tìm thấy các ống tủy phụ, như ống tủy MB2 và 2 ống tủy xa, hoặc ống tủy thứ ba giữa răng cối hàm dưới có thể bị bỏ sót trong quá trình mở và làm sạch ống tủy. Cũng có thể nhìn thấy tủy vụn và vết nứt gãy như sợi tóc để những răng này có thể được phục hồi đúng cách.
Đôi khi những trường hợp “đơn giản” hóa ra lại không đơn giản như vậy. Tôi không thể cho bạn biết tôi đã bao nhiêu lần nội nha và đã gặp phải tình trạng giải phẫu bất thường khiến tôi đổ mồ hôi và phải ”cầu nguyện” khi trao đổi với bệnh nhân. Sử dụng công nghệ CBCT trở thành lợi thế của tôi, tôi có thể thấy chính xác chiếc răng này có vấn đề gì. Và, là một bác sĩ tổng quát, tôi có thể điều trị hoặc giới thiệu bệnh nhân đến bác sĩ nội nha tại địa phương của tôi — vì vậy anh ta cũng ít toát mồ hôi một chút!
Sử dụng CBCT trong điều trị nội nha
Thiết bị Planmeca ProMax Pro Touch 3D Classic có thể thực hiện quét CBCT 3D liều cực thấp với phạm vi 50 x 50 mm đến 80 x 80 mm (FOV). Đối với bệnh nhân cần điều trị nội nha, chúng tôi có thể thu hẹp FOV đến kích thước nhỏ nhất là 50 x 50 mm bằng cách sử dụng liều bức xạ cực thấp mà vẫn giữ được chất lượng chẩn đoán hình ảnh. Điều này thường giúp bạn thấy được ít nhất 3 răng, tùy thuộc vào kích thước của bệnh nhân và việc chúng tôi đang xem xét răng sau hay răng trước.
Hàng trăm bức ảnh chụp X-quang 2D được chụp trong khi chụp 3D và phần mềm Romexis sử dụng các ảnh này để tạo phim 3D. Chúng ta có thể sử dụng cả 3 mặt phẳng (trục thẳng đứng, mặt cắt ngang và mặt cắt thân răng) để xác định cấu trúc giải phẫu của răng mà chúng ta sẽ điều trị nội nha.
Mặt phẳng trục là hướng nhìn từ mặt nhai. Chúng ta có thể di chuyển con trỏ lên và xuống để theo dõi các ống tủy, từ phần thân răng đến tận chóp. Chế độ xem này có thể giúp bạn hình dung buồng và sàn tủy sẽ trông như thế nào khi bạn “mở chiếc răng ra’’. Tại đây, bạn có thể tìm thấy thêm các lỗ mở ống tủy: các lỗ riêng biệt ở sàn tủy, có thể xem ở Case 1 và các ống tủy phụ tách ra khỏi ống chính, như được tìm thấy trong Case 2. Nó cũng có thể giúp quan sát được những đoạn gãy và bị tiêu trong ống tủy cũng như các đường cong ống tủy khó tưởng tượng.
Mặt phẳng sagittal cho thấy mặt cắt đứng – dọc của mặt ngoài và mặt trong chia răng thành 2 nửa trái-phải, nhìn theo chiều gần – xa của răng. Quan điểm này có thể giúp xác định số lượng ống tủy, ống tủy gãy và đường cong ống tủy.
Mặt phẳng coronal cho thấy hình ảnh mặt cắt chiều đứng – nhìn theo chiều ngoài – trong của răng, tương tự như nhìn hình 2D quanh chóp bình thường của chúng ta. Tôi thường sử dụng mặt phẳng này để đo chiều dài của ống tủy và độ sâu của buồng tủy để biết được vị trí của lỗ mở của ống tủy.
Nếu ống tủy cong, vôi hóa, hoặc có sỏi tủy lớn trong buồng, tôi thường giới thiệu những bệnh nhân này đến bác sĩ nội nha. Đôi khi bạn có thể bỏ lỡ một trong những yếu tố này trong một lần khám chỉ với hình ảnh 2D thông thường. Sử dụng phim 3D có thể giúp bạn hình ảnh rõ hơn về giải phẫu răng để có thể nhìn thấy tất cả các khía cạnh của răng. Bằng cách này, bác sĩ lâm sàng có thể xác định hướng hành động tốt nhất trước khi thực hiện bất kỳ công việc lâm sàng nào. Đó là cách tiết kiệm thời gian cho cả tôi và bệnh nhân của tôi.
Case lâm sàng
Case 1
Bệnh nhân nam 43 tuổi đến phòng khám với biểu hiện đau răng hàm trên bên trái. Anh biết rằng mình bị sâu và muốn biết cách chữa trị. Chụp X quang quanh chóp (PA) để xem mức độ ổ sâu (Hình 1). Nó cho thấy bệnh lý quanh chóp của răng 12.
Các phương án điều trị cho trường hợp này đã được thảo luận với bệnh nhân để điều trị chứng viêm tủy mãn tính. Bệnh nhân muốn cứu răng bằng can thiệp nội nha và đặt chốt, tái tạo cùi thay vì nhổ răng và cấy ghép hoặc phục hình cầu răng hay tháo lắp. Ống tủy nhỏ, vì vậy tiến hành chụp phim 3D với Promax (Planmeca) để xem chi tiết giải phẫu của ống tủy. Phim 3D cho thấy 2 ống tủy và một ống tủy ở mặt khẩu cái (Hình 2 và 3). Những ống tủy dù mỏng cũng có thể được tìm thấy. Không có vôi hóa, và ống tủy có thể được làm sạch và bịt kín.
Case 2
Một nam thanh niên 17 tuổi đến phòng khám với tình trạng đau răng ở răng số 21. X quang quanh chóp cho thấy bệnh lý ở chóp (Hình 6). Chiếc răng đã được trám composite trước đó. Nam thanh niên này có buồng tủy lớn nên miếng trám gần cùi. Góc của bức ảnh X quang quanh chóp này cho thấy một ống tủy có bị phân chia. Một phim CBCT được chụp, cho thấy rằng chiếc răng có một chân răng với một ống tủy duy nhất chia thành 2 ống tủy (ống tủy ngoài và ống tủy trong) ở 1/3 chóp (Hình 7 và 8).
Hình 6. Hình ảnh chẩn đoán quanh chóp răng số 21 cho thấy miếng trám mặt nhai gần với buồng tủy, không gian dây chằng nha chu mở rộng, và một ống tủy bị tách ra ở 1/3 đỉnh Hình 7. Phim CBCT (hướng trục trên xuống) 1/3 đường xuống buồng tủy cho thấy chỉ có một ống tủy trong khu vực này Hình 8. Phim CBCT (hướng trục trên xuống) của ⅓ chóp cho thấy một ống tủy bị tách (ngoài trong) Hình 9. Chiều dài làm việc cuối cùng sau khi đặt gutta-percha Hình 10. Phim CBCT (hướng trục trên xuống) của 1/3 đỉnh cho thấy ống tủy ngoài và trong được bịt kín thành công
Quy trình nội nha được thực hiện gồm làm sạch, tạo hình và bịt kín ống tủy (Hình 9). Phim CBCT xác nhận sau đó đã được thực hiện sau khi bịt kín để đảm bảo rằng các ống tủy đã được bịt kín đúng cách (Hình 10). Composite được trám ở lần phục hình cuối cùng.
Kết luận
Theo một nghiên cứu năm 2009, 64% trong số 400 răng tiền hàm hàm trên được kiểm tra có 3 chân răng riêng biệt.
Đó là phần lớn răng được tìm thấy có 3 chân răng riêng biệt trong nghiên cứu này! Việc quan sát có thể khó khăn với những ống tủy hẹp này trên phim chụp X quang 2D, ngay cả khi bạn có được một phim quanh chóp tốt. Trong một đánh giá năm 2013, 17 nghiên cứu đã so sánh số lượng ống tủy tại đỉnh của 3.384 răng tiền hàm hàm dưới. Chỉ 11% trong số này có 2 hoặc nhiều ống tủy ở chóp. Bác sĩ tổng quát nên biết những số liệu thống kê này vì thông tin này có thể hỗ trợ việc xác định xem những trường hợp này có nên được chuyển đến bác sĩ nội nha cũng như khả năng tìm thấy thêm chân răng / ống tủy hay không.
Những ca khó có thể cần được chuyển đến bác sĩ chuyên khoa, nhưng đôi khi chúng có thể thực hiện dễ dàng hơn với sự trợ giúp của phim 3D. Những chiếc răng này có thể sẽ khó đối với một bác sĩ tổng quát không có phim CBCT. Các trường hợp được trình bày ở đây đã thành công vì khi có phim CBCT, có thể lập kế hoạch chi tiết và phù hợp.
Bài viết được lược dịch từ The Benefits of CBCT 3-D Technology for the GP của Dr. Stephanie Aldrich
Bác sĩ cần tư vấn về thiết bị chẩn đoán hình ảnh Planmeca, vui lòng để lại thông tin để Seadent có thể liên hệ bác sĩ!